Thế giới truyền thông mang tính thương mại hơn của Trung Quốc nhận ra rằng chủ nghĩa dân tộc lan rộng.
Thế hệ đầu tiên nhận sự đối xử đó hiện nay đã gần 30 tuổi, và chủ nghĩa dân tộc tỏ ra là chân thực và đang lan rộng. Lord Patten, người đã đàm phán sự chuyển giao quyền lực của Hongkong từ Anh sang Trung Quốc, nói: "Về Tây Tạng và Đài Loan không chỉ các bộ trưởng của Trung Quốc mà cả những người bất đồng quan điểm cũng tỏ ra tức giận". Ông White, một quan chức an ninh và quốc phòng trước đây của Australia nói" "Đây là một dân tộc với ý thức về sự vĩ đại trong quá khứ củ họ, nỗi nhục nhã gần đây, thành tựu hiện nay và uy thế trong tương lai. Đó là một sự pha trộn mạnh mẽ".
Thế giới truyền thông mang tính thương mại hơn của Trung Quốc nhận ra rằng chủ nghĩa dân tộc lan rộng. Theo Susan Shirk, học giả người Mỹ đồng thời là cựu phó trợ lý ngoại trưởng, các độc giả ưa thích các câu chuyện than phiền về Nhật Bản, Đài Loan và Mỹ - và các nhân viên kiểm duyệt thường vui mừng thấy các tin tức về những sự việc như vậy. SIPRI nhận ra rằng những bài báo có ảnh hưởng nhất về chính sách đối ngoại xuất hiện trên tờ "Global Times", được viết bởi những người theo chủ nghĩa dân tộc cứng rắn.
"Các cư dân mạng" dễ bị kích động của đất nước này có xu hướng truyền bá ý tưởng rằng Trung Quốc đang bị hiểu sai và ở đâu cũng thấy sự coi thường. Vào năm 2008, trong một cuộc tranh cãi của Trung Quốc với Việt Nam về biển Đông, một người khác cho rằng phải dạy cho Việt Nam một bài học - và đã công bố mọt ké hoạch xâm lược nhằm tỏ rõ điều đó. Điều này nuôi dưỡng cảm giác là nạn nhân của Trung Quốc. Một blogger và là một phóng viên, tên là Fang Kechang, đã tính toán rằng kể từ năm 1948 nhân dân Trung Quốc chính thức bị "làm nhục" ít nhất 140 lần - và rằng những sự xỉ nhục đó phổ biến trong thời cải cách hơn là trong thời Mao.
Những gì được coi là dư luận ở Trung Quốc không phải là nguồn áp lực duy nhất đối với các nhà lãnh đạo. Các phe phái trong giới tinh hoa có chọn lọc của Trung Quốc, không phải là hòn đá tảng thụ động, cũng đang tìm thấy tiếng nói của mình. Và điều đó cũng có xu hướng thúc đẩy chính sách hướng tới chủ nghĩa dân tộc. Các vấn đề quốc tế trước đây thường là công việc của bộ Ngoại giao ủn hộ sự hòa hoãn. Bộ này bị chế giễu là "bộ phản bộ lại đất nước mình" và được công chúng gửi cho những viên canxi để làm chắc thêm xương sống của nó.
Hiện nay, các vấn đề này phức tạp hơn, các bộ ngành trong nước và các quan chức bậc trung cũng liên quan đến - và họ có xu hướng dân tộc chủ nghĩa hơn các quan chức cấp cao thuộc bộ Ngoại giao. Các nhà nghiên cứu thuộc SIPRI nhận ra rằng đặc biệt là bộ An ninh quốc gia có vai trò lớn hơn trong chính sách đối ngoại. Tại các cuộc đàm phán về sự biến đổi khí hậu ở Copenhagen quyền lực thuộc về Ủy ban phát triển và cải cách quốc gia, chịu trách nhiệm về sự phát triển kinh tế. Trung Quốc đã gây ra những sự chỉ trích của nước ngoài vì theo một đường lối cứng rắn, chống lại sự cố vấn của bộ Ngoại giao.
Ảnh hưởng của PLA khó có thể biết được hơn. Một mặt, kể từ đại hội đảng năm 1992, không một sĩ quan nào được lựa chọn và ủy ban thường vụ Bộ Chính trị hết sức quan trọng. Vào lúc kết thúc cuộc Cách mạng văn hóa hơn ½ Bộ chính trị là từ PLA; hiện nay chỉ 2 trong số 24 thành viên của Bộ Chính trị là từ PLA. Mặt khác, các tác giả từ các viện nghiên cứu của PLA nói thẳng hơn và đáng chú ý hơn so với họ trước đây, sử dụng các bài bình luận trên báo chí và xuất hiện trên truyền hình để thuyết phục mọi người chấp nhận các quan điểm của PLA.
Không như các đội quân chuyên nghiệp của phương Tây, PLA nói thẳng về chính sách đối ngoại. Trong cuốn sách của mình có tựa đề "The Party" (Đảng), Richard McGaregor chỉ ra rằng có khoảng 90.000 chi bộ đảng - một chi bộ gồm 25 binh sĩ. Mặc dù những ngày này sự thăng tiến phụ thuộc vào năng lực cũng như hệ tư tưởng, vai trò chính trị của PLA đem lại cho nó tiếng nói trong chính sách an ninh. Không như Mao Trạch Đông và Đặng Tiểu Bình, các nhà lãnh đạo ngày nay không xuất thân từ quân đội, chính vì thế họ có thể cần phải giữ PLA ở gần mình.
Trong cả hai cách, các nhà cầm quyền sẽ phải theo dõi dư luận, chỉ bởi vì một cuộc phản kháng có thể trở thành một dạng biến đổi của sự chống đối. Các cuộc biểu tình chống Nhật Bản ở Hàn Quốc vào những năm 1960 đã kích động phong trào ủng hộ chế độ dân chủ - chỉ khi các cuộc phản kháng chống lại các sinh viên châu Phi xảy ra trước cuộc phản kháng ở Thiên An Môn vào năm 1989. Rana Miiter thuộc trường đại học Oxford nói rằng chính sách đối ngoại có lịch sử làm bất ổn các chính quyền ở Trung Quốc và người Trung Quốc nhanh chóng đổ lỗi cho những thất bại ở bên ngoài về yếu điểm trong nước - họ thích nói: "mất trật tự ở trong nước, tai họa ở nước ngoài".
Chủ nghĩa dân tộc có thể tạo dựng một vấn đề trước khi các nhà lãnh đạo đối phó với nó. Vào lúc cuộc cãi vã về chẳng hạn quần đảo Điếu Ngư (Sekaku) tranh chấp đến bàn làm việc của họ, bộ Truyền thông, cùng với các nhà bình luận thuộc báo giới và các tuyên bố từ PLA, có thể tạo ra một bối cảnh mà họ không thể rút lui mà không có vẻ yếu kém.
Động lực này không phải là mới. Nó làm phức tạp rất nhiều cuộc va chạm trên không giữa một máy bay chiến đấu của Trung Quốc và một máy bay thám thính của Mỹ vào năm 2001, mà PLA đã đổ lỗi (một cách sai lầm) cho người Mỹ. Nhưng hiện nay, trong thời gian trước khi diễn ra sự thay đổi giới lãnh đạo của đất nước này vào năm 2012, dường như là một việc ngon xơi có thể làm hỏng cả sự nghiệp.
Shirk viết rằng điều nguy hiểm là "thỏa hiệp có thể bị xem là đầu hàng". Điều đó gây ra các mối nguy hiểm cho bất cứ ai ở Trung Quốc ủng hộ sự hòa hoãn. Nói với ông Lampton về Đài Loan, một học giả Trung Quốc đã đề cập theo cách này: "Nếu chúng ta giả sử là có 2 sự lựa chọn và họ sử dụng các biện pháp cứng rắn... và nhà lãnh đạo thất bại trong việc giải quyết (một vấn đề), thì ông ấy được biện minh cho việc đó. Nhưng nếu ông ấy sử dụng quá nhiều sự mềm mỏng và ông ấy thất bại, thì ông ấy bị các thế hệ trong tương lai xem là có lỗi".
Trong dài hạn, cơ hội để các nhà lãnh đạo hành động sẽ phụ thuộc vào sự phát triển kinh tế. Một Trung Quốc đang bùng nổ sẽ cho thấy đất nước họ đủ mạnh để áp đặt lý lẽ của mình trên thế giới. Một Trung Quốc yếu kém ở đó sự tăng trưởng không chắc chắn và đang cảm thấy phải chịu áp lực trong nước có thể gây rắc rối ở nước ngoài. Điều đó không mang lại nhiều cơ hội lắm cho một Trung Quốc ít quyết đoán hơn.
Giả sử rằng các nhà lãnh đạo muốn trung thành với lời huấn thị ban đầu của Đặng Tiểu Bình "giấu mình chờ thời", có 3 điều có lợi cho họ. Thứ nhất, chủ nghĩa dân tộc đại chúng có giá trị trong phần lớn các tranh chấp lãnh thổ, như Đài Loan và các hòn đảo ngoài khơi của Trung Quốc. Theo Jian Yang thuộc trường đại học Auckland, New Zealand, chủ nghĩa dân tộc ít có vai trò hơn trong các lĩnh vực công nghệ chẳng hạn như kinh tế học, lĩnh vực có thể cũng quan trọng như vậy, nếu không nói là nhiều hơn, đối với các nhà lãnh đạo. Thứ hai, Trung Quốc rõ ràng là không có một tầm nhìn lớn thay thế cho trật tự theo đường lối tự do mà Mỹ đã bảo trợ kể từ Chiến tranh Thế giới thứ Hai. Họ không cần phải vướng vào các cuộc tranh luận về tư tưởng ở nước ngoài.
Nhưng thứ ba, và quan trọng nhất, có nhiều việc Mỹ và Trung Quốc cùng nhất trí. Cả hai nước muốn có một nền kinh tế thế giới lành mạnh, châu Á ổn định, hòa bình ở Trung Đông, các con đường biển mở, hạn chế phổ biến vũ khí hạt nhân, một hệ thống thương mại cởi mở,... Họ có rất nhiều lý do muốn có các mối quan hệ đủ tốt để có thể thực hiện những việc như vậy.
Tăng cường tính quyết đoán
..... Thế giới sẽ thích nghi với Trung Quốc quyết đoán hơn dễ dàng như thế nào? Trong phần lớn một thập kỷ Trung Quốc đã nỗ lực rất nhiều để cam đoan lại với các nước láng giềng rằng họ không có gì phải lo sợ trước sự nổi lên của Trung Quốc. Chính vì vậy, thái độ quyết đoán mới của nước này sẽ gây khó chịu gấp đôi, đặc biệt là nếu nó được kết hợp với các tranh chấp lãnh thổ gây tức giận.
Nói cách khác, an ninh châu Á sẽ được quyết định không chỉ bởi việc Trung Quốc sử dụng sức mạnh mới của mình như thế nào mà còn bởi việc các nước khác phản ứng lại hành động đó như thế nào. Đó là ý tưởng đằng sau Khái niệm an ninh mới mang tính hòa giải của Trung Quốc. Các nước khác sẽ bớt căng thẳng nếu họ được đảm bảo lại rằng Trung Quốc không gây ra một mối đe dọa. Không may thay, chiến dịch "ve vãn" không hoàn toàn có tác dụng.
(Theo TuanVietNam)
(Theo TuanVietNam)
Labels:
Đọc - Nghĩ





